BỆNH PEMPHIGOID CÓ SẸO
(Cicatricial pemphigoid)
- ĐẠI CƯƠNG
Bệnh Pemphigoid có sẹo (Cicatricial pemphigoid viết tắt là CP) là một bệnh da bọng nước tự miễn mạn tính dưới thượng bì, hiếm gặp, ảnh hưởng chủ yếu đến niêm mạc như miệng, mắt, mũi, hầu họng, thực quản, khí quản, sinh dục…, đôi khi ở da và để lại sẹo.
Bệnh còn được gọi là “Pemphigoid niêm mạc”, bệnh “Pemphigoid ở miệng” hay bệnh Brunsting-Perry.
Pemphigoid có sẹo có nhiều hình thái lâm sàng, một số trường hợp rất khó phân biệt với các bệnh da bọng nước tự miễn dưới thượng bì khác như Pemphigoid bọng nước (BP) hay Ly thượng bì bọng nước mắc phải (epidermolysis bullosa acquisita-EBA) do các bệnh này cũng có tổn tương ở niêm mạc.
Lịch sử
1794: Wichman lần đầu tiên mô tả một bệnh bọng nước mạn tính ở mắt.
1949: Civatte tách bẹnh này khỏi nhóm bệnh Pemphigus dựa trên những đặc điểm đặc hiệu về mô bệnh học.
Lever sau đó đặt tên là bệnh Pemphigoid niêm mạc lành tính.
Vài thập kỉ sau, với sự gia tăng tần xuất, bệnh được gọi tên là Pemphigoid có sẹo.
Với sự tiến bộ của miễn dịch huỳnh quang (MDHQ) xác định được phản ứng miễn dịch lắng đọng dọc màng đáy, căn nguyên miễn dịch của bệnh đã được chứng minh.
Dịch tễ
- Tỉ lệ mắc bệnh
- Ở Mỹ: không có số liệu chính xác về tỷ lệ mắc bệnh CP, tuy nhiên Pemphigoid có sẹo là bệnh không phổ biến
- Thế giới: CP là bệnh hiếm gặp. Ở Tây Âu khoảng 1/1.000.000 người. Ở Pháp, tỉ lệ bệnh khoảng 1,16/1.000.000 dân/mỗi năm. Ở Đức là 0,87/1.000.000 dân/mỗi năm.
Tỉ lệ ước tính của CP thể mắt khoảng từ 1/8000-1/46.000 người. Tỉ lệ thực sự của bệnh này có thể cao hơn do bệnh khó chẩn đoán.
- Giới: phần lớn các nghiên cứu cho thấy tỉ lệ gặp phụ nữ cao hơn nam giới 2/1,5.
- Tuổi: hầu hết bệnh nhân CP là người cao tuổi, tuổi trung bình là 60-80 tuổi. Cũng có vai trường hợp trẻ em.
- Không có sự khác biệt về địa lí và chủng tộc.
- Bệnh liên quan đến những halotype gen miễn dịch đặc hiệu, chủ yếu DQw7 (nhóm phụ HLA-DQB1*0301) ở cả hai thể miệng và mắt. Ở Mỹ, số bệnh nhân Pemphigoid sẹo liên quan chủ yếu đến HLA-DQB1*0301.
- Chưa thấy bằng chứng kết hợp ung thư, nhưng ở nhóm bệnh CP có tự kháng thể kháng laminin-5 (hay anti-epiligrin) có tăng nguy cơ ung thư.
- LÂM SÀNG
2.1. Triệu chứng
Pemphigoid có sẹo chủ yếu gây các vết loét đau và dai dẳng ở niêm mạc, khi lành để lại sẹo. Tùy thuộc vào vị trí niêm mạc bị tổn thương mà CP có các hình ảnh lâm sàng khác nhau.
Miệng
Miệng là vị trí niêm mạc bị tổn thương nhiều nhất, chiếm 85%, trong đó viêm lợi vùng gần răng là dấu hiệu phổ biến nhất với biểu hiện viêm trợt niêm mạc lợi chảy máu. Bệnh dai dẳng, kéo dài đưa đến viêm lợi mạn tính gây tổn thương dây chằng quan răng và làm mất răng.
Tổn thương ở miệng còn xảy ra ở bất kì vị trí nào trong miệng như vòm họng, lưỡi, môi, sàn miệng, lưỡi gà, amidan, hầu họng. Biểu hiện ban đầu là các bọng nước, sau vỡ ra tạo thành các vết loét trợt đau đớn, dai dẳng kéo dài, lâu lành và tái phát. Bệnh gây đau đớn làm người bệnh khó ăn, uống. Tổn thương khi lành có thể để lại sẹo trắng hình sọc, hình lưới giống lichen phẳng. Môi ít bị tổn thương.
Nếu vết loét xảy ra trong bầu họng, thực quản, khí quản và thanh quản có thể gây khàn giọng hay khó nuốt. Thậm chí nếu sẹo tiến triển có thể đưa đến hẹp thực quản, hẹp khí phế quản đe dọa tính mạng bệnh nhân.
Mắt
Mắt là vị trí niêm mạc thường bị tổn thương hay gặp thứ hai, chiếm khoảng 2/3 bệnh nhân. Tuy nhiên, một số bệnh nhân CP chỉ có tổn thương ở mắt, không có tổn thương trên da hay các vùng niêm mạc khác.
Biểu hiện chủ yếu là viêm kết mạc mắt. Bệnh thường bắt đầu một bên nhưng đa số trường hợp ở cả hai bên.
Khởi đầu như một viêm kết mạc mạn tính, không đặc hiệu với cảm giác cương tụ, nóng, đau, có dị vật, chảy nước mắt. Dần dần bề mặt kết mạc trợt loét, sau sừng hóa kế mạc và co ngắn túi cùng.
Muộn hơn, có thể thấy lộn mi, lông quặm. Trong quá trình sẹo tiến triển, bệnh nhân có thể bị dính mi, dính mống mắt vào giác mạc hoặc thủy tinh thể hoặc dính bờ mi gây cố định nhãn cầu.
Có thể tổn thương ống dẫn và tuyến lệ gây giảm tiết nước mắt và dịch nhầy, làm mắt khô, dễ bị chấn thương.
Các tổn thương ở mắt tiến triển, dần dần đưa đến mờ mắt, thậm chí mù lòa.
Mũi
Biểu hiện đầu tiên là chảy máu cam, sau đó xuất hiện các vết loét trợt đau, dai dẳng, khó chịu.
Loét hầu, họng gây đau. Có thể gặp tổn thương thanh quản, nếu nghiêm trọng đưa đến khàn tiếng, mất giọng, hẹp đường thở cần mở khí quản.
Da
Tổn thương da gặp khoảng 1/3 bệnh nhân với các biểu hiện bọng nước căng, chứa dịch trong và/ lẫn máu. Từ đó xuất hiện các vết loét, trợt trên nền da bình thường hoặc nề đỏ. Dấu hiệu Nicolsky (-). Bọng nước khi lành để lại sẹo hoặc hạt kê (millia).
Nếu tổn thương ở trên da đầu có thể gây rụng tóc.
Đau, ngứa nhiều tại nơi có bọng nước hoặc toàn thân.
Pemphigoid có sẹo khi có tổn thương da lan tỏa có hình ảnh lâm sàng rất giống với BP.
Sinh dục
Tổn thương niêm mạc sinh dục như âm vật, môi lớn, môi nhỏ, qui đầu, hậu môn… tương đối hiếm gặp. Bọng nước vỡ nhanh để lại những vết trợt, loét, sau đó thành sẹo teo, hẹp. Ở nữ hẹp âm đạo, ở nam gây dính bao qui đầu và qui đầu. Có thể sẹo gây hẹp hậu môn.
2.2. Các thể lâm sàng
- Thể trẻ em: rất hiếm, biểu hiện như ở người lớn.
- Thể Brusting-Perry: một hình thái lâm sàng khu trú của CP, hiếm gặp. Bệnh gặp chú yếu ở người già và nam giới. Tổn thương là mụn nước, bọng nước tái phát, mạn tính khu trú chủ yếu ở da đầu và cổ, khi lành để lại sẹo teo da. Ở da đầu sẹo gây rụng tóc có sẹo.
Hình ảnh mô bệnh học và MDHQ tương tự như CP.
- Thể chỉ có ở niêm mạc: khu tru ở niêm mạc miệng: thường ở lợi, gây loét trợt mạn tính và đơn độc, nhưng có thể gặp ở lưỡi, amidan, vòm khẩu.
- Thể khu trú ở mắt: điển hình gồm 2 giai đoạn khởi đầu chậm và giai đoạn cấp tính với suy giảm thị lực.
- Thể có kháng thể kháng Laminin-5 (anti epiligrin): lâm sàng giống BP với nhiều tổn thương ở miệng, mắt và mũi.
2.3. Biến chứng
- Mắt: sừng hóa giác mạc, co rút túi cùng kết mạc, lông quặm, dính mống mắt, dính nhãn cầu, dình bờ mi, nước mắt giảm sút và mù.
- Chít hẹp đường thở, hẹp thực quản hoặc sẹo trên da, milia.
2.4. Tiên lượng
Nghiên cứu lâu dài về tiên lượng bệnh chưa được thực hiện. Nhìn chung, Pemphigoid có sẹo là một rối loạn mạn tính, đáp ứng kém với điều trị. Bệnh đặc trưng bởi các đợt bệnh phát và thuyên giảm xen kẽ.
Một nghiên cứu gần đây trên 35 bệnh nhân Pemphigoid sẹo thể anti epiligrin cho thấy gia tăng nguy cơ bệnh ác tính, đặc biệt cao trong các năm đầu tiên của bệnh.
(Tài liệu được biên soạn bởi PGS. TS. Trần Lan Anh của Bộ môn Da liễu, trường Đại học Y Hà Nội)