duitnow casino

Bài 37: U mềm lây

U MỀM LÂY

(Molluscum Contagiosum)

1. ĐẠI CƯƠNG

U mềm lây (Molluscum Contagiosum) là bệnh do do virus có tên khoa học là Molluscum contagiosum virus (MCV) thuộc nhóm Poxvirus gây nên.

Ở Mỹ, ước tính khoảng 1% dân số mắc ít nhất một lần u mềm lây trong đời và số bệnh nhân đến khám tại các cơ sở y tế năm 1983 tăng gấp 11 lần so với năm 1966. Tại Anh, theo nghiên cứu của Pannell thì tỷ lệ mới mắc bệnh ở nam là 243/100.000 và ở nữ là 231/100.000.

Bệnh có thể xảy ra ở bất kỳ lứa tuổi nào nhưng thường gặp nhất ở trẻ em. Theo nghiên cứu của Dohil MA và cộng sự thì 80% bệnh nhân dưới 8 tuổi. Nghiên cứu của Pannell nhận thấy 3,4% trẻ em nam và 3,2% trẻ em nữ từ 5 đến 14 tuổi bị u mềm lây.

2. CĂN NGUYÊN

U mềm lây được Batcman mô tả lần đầu tiên năm 1817 và năm 1905 Juliusburg phát hiện ra căn nguyên gây bệnh là virus có tên khoa học là Molluscum contagiosum virus (MCV) thuộc nhóm Poxvirus có kích thước lớn (200x300x100mm). Màng trong và màng ngoài của virion bao quanh nhân hình chùy, trong chứa gen là 1 chuỗi kép DNA với trọng lượng 120-200 megadaltons. Virus nhân lên trong tế bào biểu mô, kích thích các tế bào này sản xuất ra các thể vùi, có kích thước lớn hơn bình thường, nhân bị teo nhỏ, tương bào bắt màu kiềm.

Xem thêm:  Bài 8: Bệnh bọng nước thành dải

Có 4 type virus là MCV 1, 2, 3 và 4. Hai type thường gặp là MCV 1 và MCV 2. Trong đó type 1 là nguyên nhân chủ yếu gây tổn thương da. Type 2 thường gây u mềm lây ở người lớn và được xếp vào nhóm các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Trên lâm sàng không phân biệt được các type gây bệnh mà chủ yếu dựa vào các xét nghiệm PCR mới có thể định type được virus.

Phương thức lây truyền là tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp qua các dụng cụ, tay bị tổn thương khi phẫu thuật, trẻ em tắm cùng bể tắm, dùng khăn, dụng cụ thể thao chung hoặc ngồi cùng ghế. Theo Braue và cộng sự, 62% trẻ em mắc u mềm lây do tắm ở bể bơi.

Có nhiều yếu tố thuận lợi cho virus phát triển, đặc biệt là ở bệnh nhân bị viêm da cơ địa (VDCĐ). Nghiên cứu của Dohil MA và cộng sự ghi nhận 24% bệnh nhân mắc u mềm lây có tiền sử hoặc đang biểu hiện VDCĐ. Cũng theo tác giả, những bệnh nhân bị VDCĐ thường có số lượng thương tổn nhiều hơn và có xu hướng lan tỏa. Tác giả cũng cho rằng người bị VDCĐ hoặc da khô, chức năng bảo vệ của da đối với các tác nhân gây bệnh suy giảm, tạo điều kiện thuận lợi cho sự bám dính và gây bệnh của virus ở da. Hơn nữa, việc điều trị VDCĐ bằng các loại kem có chứ corticoid cũng là điều kiện cho sự lan tràn của bệnh.

Xem thêm:  Bài 45: Ung thư tế bào đáy

3. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

Thời gian ủ bệnh: từ hai tuần đến sáu tháng.

Tổn thương cơ bản là sẩn chắc có màu hồng nhạt, trắng đục hoặc màu vàng, đôi khi màu da bình thường, đường kính từ 2-6mm, lõm giữa, đứng riêng rẽ hoặc thành từng đám. Các sẩn có thể sắp xếp thành dải (dấu hiệu Koebner). Số lượng tổn thương thay đổi từ 1-20 cho tới hàng trăm. Ở trẻ em, thương tổn chủ yếu ở vùng da hở như ở mặt, cổ, nếp gấp. Ở người lớn, thương tổn thường ở vùng bụng dưới, phía trong đùi, xương mu, sinh dục. Da xung quanh thương tổn có thể đỏ, ngứa do phản ứng đáp ứng miễn dịch của cơ thể đối với tác nhân gây bệnh. Ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch như nhiễm HIV, mắc các bệnh mạn tính bẩm sinh, hoặc điều trị bằng các thuốc ức chế miễn dịch, thương tổn u mềm lây thường có kích thước lớn hơn 5mm, lan tỏa toàn thân với số lượng nhiều (>30) và tồn tại dai dẳng.

4. CẬN LÂM SÀNG

  • Mô bệnh học: Biểu bì quá sản mạnh gấp nhiều lần bình thường, gồm nhiều tiểu thể mềm bắt màu ưa acid, đứng sát cạnh nhau, nén chặt lại thành từng thùy hình quả lê, xâm lấn xuống trung bì nông, trung tâm lõm hình miệng dạng nhúi lửa. Trung bì có hiện tượng xâm nhập ít bạch cầu đơn nhân xung quanh các huyết quản ở trung bì nông.
  • Các xét nghiệm khác:
  • Phản ứng huyết thanh xác định kháng thể kháng virus u mềm lây trong huyết thanh.
  • Nhuộm giemsa hay nhuộm gram phát hiện các tế bào sừng có kích thước lớn trong chứa nhiều thể vùi.
  • Kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang phát hiện kháng nguyên MCV.
Xem thêm:  Bài 95: Phủ bạch tuyết

(Tài liệu được biên soạn bởi PGS. TS Nguyễn Hữu Sáu của Bộ môn Da liễu, trường Đại học Y Hà Nội)