duitnow casino

Bài 67: Mày đay và phù mạch

MÀY ĐAY VÀ PHÙ MẠCH

( Urticaria and angioedema)

1. ĐẠI CƯƠNG

Mày đay có thương tổn da là những sẩn phù được bao quanh bởi quầng đỏ, rất ngứa. Các sẩn có thể tồn tại từ 30 phút tới 36 giờ, có kích thước từ 1 mm tới vài cm ( mày đay khổng lồ), ấn kính mất màu. Đặc trưng của mày đay là các mạch máu bị giãn, tăng tính thấm ở trung bì nông và liên quan tới mạng lưới mao mạch ở vị trí đó. Phù mạch có thể có cơ chế bệnh sinh như mày đay nhưng xảy ra ở trung bì sâu và mô dưới da, với sưng phù là biểu hiện chính, da phía trên đỏ hoặc bình thường, ít ngứa nhưng đau và rát bỏng.

Bệnh mày đay đã được mô tả từ thời Hippocrate ( 460 – 370 trước Công Nguyên), và từ xa xưa y học phương Đông đã mô tả chứng ẩn chẩn do nhiều nguyên nhân khác nhau có triệu chứng tương tự như mày đay. Thuật ngữ mày đay có nguồn gốc từ tiếng La- tinh là “urtica” nghĩa là cây tầm ma, là loại cây dại có hoa, thụ phấn nhờ gió, trên thân và lá có chi chít các lông nhỏ chứa acid phocmic, khi tiếp xúc với da sẽ gây phản ứng làm cho da rất ngứa và nhức.

Mày đay và phù mạch là bệnh phổ biến, 15 – 25% dân số thế giới có biểu hiện mày đay ít nhất 1 lần trong đời, bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng có hai đỉnh cao là tù sơ sinh tới 9 tuổi và từ 30 – 40 tuổi.

Mày đay và phù mạch được chia làm 2 thể là cấp tính và mạn tính. Bệnh cấp tính nếu kéo dài dưới 6 tuần, hầu hết là do phản ứng với thuốc hoặc thức ăn, hoặc với bệnh virus ở trẻ em. Bệnh mạn tính nếu kéo dài trên 6 tuần, ở nhóm này bệnh còn được chia ra thành 2 dưới nhóm là mày đay mạn tính tự miễn ( chronic autoimmune urticaria), chiếm 45% và mày đay mạn tính tự phát ( chronic idiopathic urticaria), chiếm 55%, tỷ lệ chung của mày đay mạn tính trong dân số là 0,5%. Mày đay gây ra do tác nhân vật lý không được định nghĩa trong mày đay mạn tính, nhiều typ khác nhau của mày đay có thể kéo dài nhiều năm nhưng các thương tổn riêng rẽ thường xuất hiện và biến đi trong vòng 2 giờ và diễn biến gián đoạn. Khoảng 85 % trẻ em có mày đay mà không kèm phù mạch, 40% người lớn có mày đay kèm theo phù mạch.

Khoảng 50% bệnh nhân mày đay mạn tính ( có hoặc không có phù mạch kèm theo ) hết triệu chứng trong vòng 1 năm, 65% trong vòng 3 năm, 85% trong vòng 5 năm, 5% kéo dài trên 10 năm.

2. SINH BỆNH HỌC

2.1. Tế bào mast và sự giải phóng histamine

Tế bào mast đóng vai trò chính trong tất cả các dạng mày đay, mặc dù vai trò của các tế bào khác đã được thừa nhận. Tế bào mast ở da gắn với fibronectin và laminin thông qua các integrin ß1 hoạt hóa muộn ( very late activation – VLA ), như VLA – 3, VLA – 4, VLA – 5 và gắn với vitronectin thông qua intergrin αvß3. Chỉ các tế bào mast ở da mới giải phóng ra histamine đáp ứng với phức hợp 48/80, C5a, morphine và codeine. Các chất neuropeptide P ( SP), peptide hoạt hóa mạch máu thuộc ruột ( vasoactie intestinal peptide – VIP) và somatostain hoạt hóa tế bào mast giải phóng histamine. Không phải tất cả các sản phẩm sinh học có tiềm năng đều được vận hành khi tế bào mast bị kích thích. Ví dụ: SP giải phóng histamine từ tế bào mast ở da trên 10-6 M nhưng không sinh ra prostaglandin D2 ( PGD2 ). Sự tăng tính thấm thành mạch chủ yếu do recepor H1 của histamine ( 85% ), phầ còn lại do recepor H2 ( 15% ).

Sau khi bị khử hạt, tế bào mast giải phóng ra nhiều chất trung gian hóa học như histamine, leukotrien, cytokine, chemokine dẫn tới tăng tính thấm thành mạch, tăng số lượng các phân tử kết dính của tế bào nội mô, tăng chuyển động lăn và kết dính của bạch  cầu do hiện tượng hóa ứng động.

Xem thêm:  Bài 125: Bệnh nhiễm sắc tố dầm dề

2.2. Mày day mạn tính và miễn dịch tự nhiên

Giả thiết cho rằng bệnh mày đay mạn tính xảy ra trên thể tạng bệnh tự miễn đã được ghi nhận khi người ta thấy rằng có sự tăng nồng độ kháng thể kháng tuyến giáp ( antithyroid antibody) ở những bệnh nhân này. Chúng bao gồm kháng thể kháng microsoma và kháng thể kháng thyroglobulin có ở bệnh viêm tuyến giáp tự miễn Hashimoto. Sự tăng kháng thể kháng tuyến giáp ở những bệnh nhân mày đay mạn tính đã được đề cập trong y văn, với tỷ lệ là 15 – 24%, và nó liên quan với mày đay mạn tính tụ miễn hơn là mày đay mạn tính tự phát. Một giả thiết nữa là tồn tại kháng thể thuộc loại IgG kháng lại dưới nhóm α của recepor IgE với tỷ lệ đã được xác định là 5 – 10%.

2.3. Sự xâm nhập của các tế bào viêm

Trên hình ảnh mô bệnh học thấy sự xâm nhập quanh mạch chủ yếu là lympho T CD4+ và tế bào đơn nhân, không có lympho B. Mật độ các hạt tế bào khác nhau nhưng đều đầy hạt nếu thương tổn được sinh thiết sớm. Cả bạch cầu đa nhân trung tính và ái toan đều có mặt nhưng độ tập trung của bạch cầu ái toan khác nhau. Thậm chí khi không thấy bạch cầu ái toan thì vẫn có các protein nền chủ yếu trong thương tổn xác định sự khử hạt trước đó của chúng. Sự có mặt của bạch ầu ái kiềm được xác định bằng cách sử dụng kháng thể BB1 đặc trưng cho nó. Như vậy sự xâm nhập của các tế bào viêm giống với pha muộn của phản ứng dị ứng. Sự hoạt hóa của các tế bào nội mô được đề cập vì sự có mặt của phân tử kết dính nội bào typ 1 ( intercellular adhesion molecule 1) và E – selectin trong mẫu sinh thiết thương tổn mày đay. Nguồn của các chemokine là tế bào mast và các tế bào nội mô được hoạt hóa, trong đó có tế bào nội mô không chỉ bị kích thích bởi các cytokine hoặc monokine nư IL – 4, IL – 1 và TNF-α mà còn do các yếu tố hoạt hóa mạch máu ( vasoactive factor) như histamine và leukotriene do tế bào mast sinh ra.

2.4.  Vai trò của bradykinin trong phù mạch

Kinin là những peptide có trọng lượng phân tử thấp tham gia vào quá trình viêm do chúng có khả năng hoạt hóa các tế bào nội mô dẫn tới giãn mạch, tăng tính thấm thành mạch, sản xuất các nitric oxide và huy động acid arachidonic. Kinin cũng kích thích đầu mút thần kinh cảm giác gây rát. Các triệu chứng lâm sàng của viêm như sưng nóng, đỏ, đau là do kinin. Bradykinin là chất kinin đặc trưng nhất trong các chất hoạt hóa mạch máu.

Có hai con đường tổng hợp bradykinin. Con đường đơn giản hơn chỉ có hai thành phần tham gia: enzym kallikrein của mô và một kininogen có trọng lượng phân tử thấp. Kallikrein của mô được tiết ra bởi nhiều tế bào của vài cơ quan trong cơ thể như tuyến nước bọt, tuyến mồ hôi, tụy nội tiết, phổi, thận, ruột, và não. Con đường thứ hai phức tạp hơn và là một phần trong hoạt hóa con đường đông máu nội sinh. Yếu tố XII là protein khởi động gắn trên bề mặt của các đại phân tử đã bị biến đổi và tự hoạt hóa để hình thành yếu tố XIIa. Có hai chất plasma nền cho yếu tố XIIa là prekallikrein và yếu tố XI, tuần hoàn dưới dạng phức hợp với kininogen trọng lượng phân tử cao (HK). Những phức hợp này gắn vào các bề mặt đầu tiên và vị trí gắn kết chủ yếu là trên hai domain của HK, theo cách đó, nó cũng là vị trí cho cả prekallikrein và yếu tố XI trong một hình thể tối ưu để tách ra kallikrein của mô là những sản phẩm gen riêng biệt và có ít amino acid tương đồng, cho dù chúng liên quan  về chức năng. Kallikrein của mô ưa kininogen trọng lượng phân tử thấp hơn nhưng nó cũng có khả năng tách ra HK, trong khi kallikrein chỉ tách ra duy nhất HK.

Xem thêm:  Bài 27: Bệnh hột xoài hay bệnh u hạt lympho sinh dục

3. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CHUNG CỦA MÀY ĐAY VÀ PHÙ MẠCH

Thương tổn cơ bản: bẩn phù ranh giới rõ, kích thước 1 – 8 cm màu đỏ hoặc màu trắng với vành đỏ xung quanh, hình tròn, ovan hoặc đa cung, ngứa nhiều. Các sẩn phù thường lan rộng thành những mảng lớn. Thời gian tồn tại ngắn, thường dưới 24 24 giờ.

Phù mạch: sưng nề mí mắt, môi, lưỡi, đầu chi và các vị trí khác do phù nề dưới da. Nếu sưng nề thanh quản có thể gây khó thở.

Phân bố:có thể khu trú hoặc lan rộng, có thể mày đay hoặc phù mạch đơn thuần hoặc kết hợp với nhau.

4. PHÂN LOẠI MÀY ĐAY/ PHÙ MẠCH

4.1. Theo thời gian diễn biến

4.1.1. Mày đay cấp

Khởi phát cấp tính và kéo dài dưới 6 tuần, thương tổn là các sẩn phù lớn trên da và thường kết hợp với phù mạch xảy ra trên một cơ địa dị ứng và phụ thuộc IgE, liên quan với thức ăn, ký sinh trùng, thuốc ( như penicillin).

4.1.2. Mày đay mạn tính

Bệnh kéo dài trên 6 tuần, các sẩn phù nhỏ hoặc lan rộng, hiếm khi phụ thuộc IgE mà liên quan với tự kháng thể kháng FcRI, 80% không rõ nguyên nhân và được xem là tự phát. Bệnh chủ yếu ở người lớn và nữ nhiều hơn nam.

4.2. Các thể đặc biệt liên quan tới cơ chế sinh bệnh

4.2.1. Mày đay miễn dịch

–   Qua trung gian IgE: thương tổn gây ra là do các chất có hoạt tính sinh học được tế bào mast hoặc bạch cầu ái kiềm đã mẫn cảm với IgE giải phóng ra khi có kháng nguyên đặc hiệu. Thường xảy ra trên một cơ địa dị ứng. Các kháng nguyên hay gặp là thức ăn ( sữa, trứng, bột mì, hải sản, hạt), thuốc penicillin. Bệnh cấp tính.

–   Qua trung gian bổ thể: bằng cách hoạt hóa bổ thể theo con đường miễn dịch và giải phóng ra các độc tố phản vệ ( anaphylatoxin ) gây khử hạt của tế bào mast.

–   Tự miễn: Bệnh mạn tính và phổ biến, có tự kháng thể kháng FcRI và/ hoặc IgE. Về mặt lâm sàng, không có sự khác biệt giữa mày đay mạn tính có hoặc không có kháng thể tự miễn. Bệnh đáp ứng với phương pháp lọc huyết tương, dùng immunoglobulin tĩnh mạch hoặc cyclosporine.

–   Mày đay tiếp xúc miễn dịch ( immunologic contact urticaria ): thường gặp ở trẻ em bị viêm da cơ địa nhạy cảm với các dị nguyên của môi trường ( cỏ, động vật) hoặc những người nhạy cảm với găng tay cao su có hạt latex.

4.2.2. Mày đay vật lý

–   Chứng vẽ nổi ( dermographism): thương tổn mày đay thành đường thẳng sau khi da bị vạch hoặc cào xước, rất ngứa, mất đi sau 30 phút, xảy ra ở 4,2% dân số.

–   Mày đay do lạnh ( cold urticaria): thường xảy ra ở trẻ em và người trẻ tuổi. Thương tổn mày đay giới hạn ở những vị trí tiếp xúc với lạnh và mất đi trong vòng vài phút, sau khi đã ấm trở lại. Test “ice cube” ( cho da tiếp xúc với hòn đá lạnh trong vài phút) được dùng để chẩn đoán bệnh này.

–   Mày đay ánh nắng ( solar urticaria ): mày đay xảy ra sau khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời có bước sóng 290 – 500 nm. Các sẩn phù tồn tại dưới 1 giờ, có thể kết hợp với ngất lịm.

–   Mày đay cholinergic: thường xuất hiện sau khi tập luyện thể lực nhiều, gắng sức, tiết nhiều mồ hôi. Thương tổn là các sẩn mày đay kích thước nhỏ, rất ngứa, có thể kèm theo khó khè, chảy nước mắt.

–   Mày đay do nước ( aquagenic urticaria): rất hiếm gặp, do tiếp xúc với nước ở bất kỳ nhiệt độ nào gây nên các thương tổn mày đay giống mày đay cholinergic.

Xem thêm:  Bài 109: Móng chọc thịt

–   Phù mạch do áp lực ( pressure angioedema); các mảng sưng đỏ do đè nén 9 ở mông do ngồi nhiều, ở bàn tay sau khi quay búa, ở bàn chân sau khi đi bộ ), gây đau nhiều, có thể kéo dài vài ngày, ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống người bệnh, Có thể sốt nhưng không có bất thường nào về xét nghiệm. Ngoài phù mạch, có thể có thương tổn mày đay.

–   Phù mạch rung động ( vibration angioedema): bệnh hiếm gặp, có thể có tính chất gia đình ( di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường ). Các kích thích rung dộng gây ra sự giải phóng histamine từ tế bào mast như khi cọ xát khăn trên lưng gây ra các thương tổn mày đay trong khi đè nén trực tiếp thì không.

4.2.3. Mày đay do các chất gây giải phóng tế bào mast, do giả dị nguyên và mày đay mạn tính tự phát ( urticaria due to mast cell-releasing agents and pseudoallergens and chronic idiopathic urticaria)

Mày đay / phù mạch , thậm chí là các triệu chứng giống phản vệ có thể xảy ra khi tiếp xúc với dụng cụ tương phản tia xạ ( radiocontrast media ) và còn là kết quả của sự không dung nạp salicylate, chất bảo quản và phụ gia thực phẩm ( như acid benzoic, muối benzoat ) cũng như các chất nhuộm bao gồm tartrazine ( giả dị nguyên). Bệnh cấp tính hoặc mạn tính. Trong mày đay mạn tính tự phát, histamine từ các tế bào mast ở da là chất trung gian hóa học chính.

Mày đay tiếp xúc không dị ứng ( non – immune contact urticaria )

Do các chất gây ngứa ngoại lai xâm nhập vào da hoặc mạch máu, thương tổn khu trú ở vị trí tiếp xúc. Chúng có thể là acid sorbic, acid benzoic trong dung dịch tra mắt và thức ăn, acetylcholine, serotonin.

4.2.4. Mày đay liên quan đến bệnh tự miễn của mô liên kết / mạch máu

Thương tổn mày đay có thể liên quan tới bệnh lupus ban đỏ hệ thống hoặc hội chứng Sjogren nhưng chúng thường thể hiện dưới dạng viêm mạch mày đay                ( urticarial vaasculitis), các thương tổn mày đay tồn tại trên 12 giờ tới 24 giwof, chậm thay đổi kích thước và hình thái, có thể liên kết với ban xuất huyết, để lại dát tăng sắc tố do lắng đọng hemosiderin. Thường liên quan với sự giảm bổ thể trong máu và bệnh thận.

4.2.5. Các hội chứng phù mạch có hoặc không có kèm theo mày đay

– Phù mạch di truyền ( hereditary angioedema ); đây là một rối loạn nguy hiểm, di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường. Biểu hiện của bệnh là phù mặt, các chi, phù thanh quản, đau bụng cấp do phù thành ruột giống một cấp cứu ngoại khoa. Hiếm khi có mày đay kèm theo. Các xét nghiệm bất thường liên quan tới hệ thống bổ thể: giảm các chất ức chế C1 – esterase, giảm C4 trong khi C1 và C3 bình thường. Phù mạch có thể do sựu hình thành bradykinin vì chất ức chế C1 – esterase là chất ức chế chính của yếu tố Hageman và kallikrein, hai enzym cần thiết cho sự hình thành bradykinin nên khi C1 – esterase bị ức chế, bradykinin được sản xuất nhiều hơn.

– Hội chứng phù mạch – mày đay – tăng bạch cầu ái toan: phù mạch nặng, thỉnh thoảng có các sẩn mày đay ngứa, liên quan tới mặt, cổ, đầu, chi, thân mình, kéo dài 7 – 10 ngày. Các cơ quan khác không liên quan. Xét nghiệm thấy bạch cầu tăng cao ( 20.000 – 70.000 / µL ) trong đó bạch cầu ái toan chiếm 60 – 80% và liên quan tới mức độ nặng của bệnh. Bệnh hiếm gặp, không có tính chất gia đình, tiên lượng tốt.

5. PHÒNG BỆNH

Tránh các dị nguyên gây mày đay đã được xác định như thức ăn, một số thuốc.

Tránh các kích thích gây mày đay vật lý.

Điều trị các bệnh nhiễm ký sinh trùng, nhiễm khuẩn.

(Tài liệu được biên soạn bởi PGS. TS. Phạm Thị Lan của Bộ môn Da liễu, trường Đại học Y Hà Nội).